1. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh
Câu hỏi 1 (trang 85) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Các yếu tố về hoàn cảnh đất nước, quê hương và gia đình đã ảnh hưởng như thể nào đến cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
* Hoàn cảnh đất nước
- Việt Nam là đất nước có nền văn hiến lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống quý báu: yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa,...
- Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược và từng bước áp đặt ách cai trị ở Việt Nam. Dưới chế độ thực dân, nền độc lập dân tộc và quyền tự do của đại bộ phận nhân dân bị tước đoạt.
- Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước chống Pháp đều thất bại, Đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân là nhiệm vụ cấp bách của dân tộc và cũng là khát vọng của cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Hoàn cảnh quê hương
- Nghệ An là địa phương có truyền thống hiếu học và khoa bảng, người dân chịu khó và cần củ trong lao động. Đây còn là vùng đất của những làn điệu dân ca ví, giặm, là quê hương của nhiều danh nhân.
- Nghệ An cũng là địa phương có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai.
- Vào đầu thế kỉ XX, cuộc khai thác thuộc địa của tư bản Pháp đã dẫn đến hình thành khu công nghiệp Vĩnh - Bến Thuỷ. Từ đó, Nghệ An trở thành trung tâm công nghiệp, buôn bản lớn ở khu vực Bắc miền Trung. Những thanh niên, trí thức yêu nước và giai cấp công nhân có điều kiện tiếp thu nhiều tư tưởng mới của thời đại.
* Hoàn cảnh gia đình
- Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc và thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
+ Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho yêu nước, từng đỗ Cử nhân tại trường thi Nghệ An (1894) và đỗ Phó bảng (1901). Ông là một tấm gương sáng về ý chí vượt khó, là người thầy mẫu mực trong dạy chữ, dạy người.
+ Bà Hoàng Thị Loan là con gái của nhà nho yêu nước Hoàng Xuân Đường. Bà là người sống chan hoà, giỏi làm ruộng và dệt vải, đã nuôi dưỡng các con bằng tình thương yêu cùng những điệu hò, câu ví, giặm.
- Dù phải trải qua tuổi thơ vất vả nhưng sự nền nếp, truyền thống hiếu học, giàu tình yêu thương của gia đình đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm hình thành nhân cách tốt đẹp và có sự đồng cảm với nhân dân lao động.
Câu hỏi 2 (trang 85) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Vì sao khẳng định: Đến đầu thế kỉ XX, sự nghiệp giải phỏng dân tộc Việt Nam “lâm vào tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”?
Trả lời:
- Vì từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước chống Pháp dưới ngọn cờ phong kiến và cuộc vận động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều thất bại. Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của Việt Nam rơi vào khủng hoảng, bế tắc.
2. Tiểu sử và tiến trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Câu hỏi (trang 88) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Khai thác thông tin, tư liệu và các hình trong mục 2 trình bày những nét chính về tiểu sử và cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Hồ Chí Minh (lúc nhỏ lấy tên là Nguyễn Sinh Cung) sinh ngày 19-5-1890 tại làng Hoàng Trù (xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Trong quá trình hoạt động yêu nước và cách mạng. Hồ Chí Minh có nhiều tên gọi khác nhau như Nguyễn Tất Thành, Văn Ba. Nguyễn Ái Quốc..
- Từ năm 1890 đến năm 1911: Hồ Chí Minh có tuổi thơ gắn bó với làng Sen, đến năm 1895 được cha đưa theo vào Huế, học tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, sau đó là Trường Quốc học Huế. Từ năm 1909, Nguyễn Tất Thành đến nhiều tỉnh phía nam như Bình Định (1909), dạy học tại Trường Dục Thanh ở Phan Thiết (1910) rồi vào Sài Gòn (1911).
- Từ năm 1911 đến năm 1919: Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba, rời Sài Gòn (1911) sang phương Tây tìm đường cứu nước, đi qua nhiều châu lục (châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mỹ) để tìm hiểu thực tiễn các nước. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, tìm hiểu và tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp (1918). Tại Hội nghị Véc-xai (1919), Nguyễn Tất Thành gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam để đòi quyền lợi cho dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1920 đến năm 1945: Nguyễn Ái Quốc (từ giữa năm 1942 lấy tên là Hồ Chí Minh) hoạt động ở Pháp và Liên Xô (1920 - 1923), sau đó là Trung Quốc, Xiêm (1924 - 1930). Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác -Lê-nin và quyết định lựa chọn con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản (1920); chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức, sau đó thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1921 - 1930).
- Năm 1933, Nguyễn Ái Quốc trở lại Liên Xô hoạt động, nhưng vẫn theo dõi và hỗ trợ phong trào cách mạng ở Việt Nam.
- Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về nước, cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương trực tiếp chuẩn bị cho cuộc vận động giải phóng dân tộc: chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 và thành lập Mặt trận Việt Minh (5-1941), thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12-1944),...
- Giữa tháng 8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945).
- Từ năm 1945 đến năm 1969: Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đồng thời giữ nhiều chức vụ quan trọng khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1951 là Đảng Lao động Việt Nam) lãnh đạo nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ (từ năm 1954 đến năm 1969), tham gia xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới: chế độ dân chủ nhân dẫn (từ năm 1945) và chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (từ năm 1954).
- Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần tại Hà Nội.
Luyện tập & Vận dụng
Luyện tập 1 (trang 88) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Hoàn thành sơ đồ tóm tắt những nét cơ bản về tiểu sử và tiến trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các mốc thời gian theo mẫu sau vào vở ghi.
Trả lời:
Vận dụng 2 (trang 88) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Sưu tầm tư liệu về tiến trình hoạt động cách mạng của Chủ tích Hồ Chí Minh (1920 – 1969). Giới thiệu những tư liệu đó với thầy cô và bạn học.
Trả lời:
- Từ năm 1920 đến năm 1945: Nguyễn Ái Quốc động ở Pháp và Liên Xô, sau đó là Trung Quốc, Xiêm. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin và quyết định lựa chọn con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản (1920); chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức, sau đó thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1921 – 1930).
- Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước, cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương trực tiếp chuẩn bị cho cuộc vận động giải phóng dân tộc.
- Giữa tháng 8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công, đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (2-9-1945).
- Từ năm 1945 đến năm 1969: Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và lãnh đạo nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) và chống đế quốc Mỹ (từ năm 1954 đến năm 1969).
- Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần tại Hà Nội.
Vận dụng 3 (trang 88) Sử 12 Cánh Diều Bài 14: Viết một bài văn ngắn giới thiệu về một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tham khảo: Giới thiệu về sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc được Sơ thảo luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin. Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước ngoài là chủ nghĩa yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại. Từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, Người đã đến với chủ nghĩa quốc tế. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại nước Pháp. Được Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường giúp đỡ, Người hăng hái hoạt động chính trị trong Việt kiều và những người lao động Pháp. Từ những hoạt động thực tiễn trên và nhất là tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lê-nin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo). Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Người đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người nhận thấy trong đó con đường giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Về sau, Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Như vậy, từ khi rời bến cảng Sài Gòn, lênh đênh trên các đại dương, cập bến bốn châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa trải nghiệm, đến giữa tháng 7-1920, tại Pa-ri (Pháp), tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc có sự chuyển biến lớn lao, từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, đến với chủ nghĩa quốc tế. Người đã nhìn thấy khả năng thực hiện ba mục tiêu lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.