Đọc hiểu
Câu 1 (trang 36) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Chú ý việc sử dụng từ ngữ để miêu tả mùa xuân.
Trả lời:
- Thời gian: “ngày xuân”, “chín chục đã ngoài sáu mươi” - Ý chỉ thời gian trôi qua thật nhanh, đã bước sang tháng thứ ba.
- Không gian: “thiều quang” - ánh sáng đẹp đẽ của mùa xuân bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên điểm một vài nét nổi bật:
+ “Cỏ non xanh tận chân trời”: không gian bao la tràn ngập sự sống của mùa xuân.
+ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”: đảo ngữ nhấn mạnh hình ảnh những bông hoa lê với sắc trắng đặc trưng cho mùa xuân.
Câu 2 (trang 37) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Lễ hội mùa xuân được khắc hoạ qua các hình ảnh nào?
Trả lời:
Mùa xuân không chỉ đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn bởi những lễ hội rực rỡ, náo nhiệt. Trong bài thơ "Cảnh ngày xuân", Nguyễn Du đã dành những vần thơ miêu tả đầy ấn tượng về lễ hội mùa xuân.
Bức tranh lễ hội hiện lên với không khí náo nhiệt, đông vui:
"Gần xa nô nức yến anh
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Dập dìu tài tử giai nhân"
Dòng người đi trẩy hội đông đúc, chen chúc nhau như dòng nước chảy xiết. Những chàng trai, cô gái đẹp diện những bộ trang phục rực rỡ, tạo nên khung cảnh sôi động, tưng bừng.
Lễ hội mùa xuân còn có những hoạt động truyền thống thể hiện lòng thành kính, tưởng nhớ tổ tiên:
"Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh"
Mọi người đi tảo mộ, dọn dẹp phần mộ của người thân, thể hiện lòng hiếu thảo, biết ơn. Sau đó, họ lại cùng nhau đi chơi hội, tận hưởng bầu không khí tưng bừng, náo nhiệt.
Khung cảnh thiên nhiên trong lễ hội cũng vô cùng tươi đẹp:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Bầu trời cao rộng, trong xanh, cỏ cây xanh non mơn mởn, điểm xuyết những bông hoa lê trắng tinh khôi. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên thanh tao, tinh tế.
Bức tranh lễ hội mùa xuân được Nguyễn Du miêu tả qua các hình ảnh sinh động, giàu sức gợi. Qua đó, tác giả thể hiện niềm hân hoan chào đón mùa xuân mới, đồng thời gửi gắm những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp.
Lễ hội mùa xuân là một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Qua miêu tả của Nguyễn Du, chúng ta có thể cảm nhận được không khí náo nhiệt, vui tươi của lễ hội và vẻ đẹp của mùa xuân
Câu 3 (trang 37) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Cảnh vật buổi chiều được miêu tả có gì khác với cảnh buổi sáng?
Trả lời:
- Bức tranh mùa xuân trong buổi chiều tà vẫn rất đẹp, rất êm đềm: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một dịp cầu...nhưng đã thấm đẫm tâm trạng của con người
- “Tà tà bóng ngả về tây”: gợi khoản thời gian buổi chiều, gợi sự vắng lặng
- “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”: Hội vui kết thúc, con người “thơ thẩn” quay trở về
- Nhiều từ láy được sử dụng: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ”: không chỉ gợi cảnh sắc mà còn gợi tâm trạng con người, đó là nét buồn thương, nuối tiếc
⇒ Bút pháp cổ điển, tả cảnh ngụ tình ⇒ Cảm giác bâng khuâng xen lẫn tiếc nuối bao trùm lên con người và cảnh vật, cũng là dự cảm về một nỗi buồn thương chưa thể lí giải của ngươi thiếu nữ nhạy cảm và sâu lắng.
Sau khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Đoạn trích Cảnh ngày xuân kể lại việc gì? Xác định bố cục của đoạn trích?
Trả lời:
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" kể lại việc hai chị em Thúy Kiều đi du xuân trong tiết Thanh minh. Qua đó, tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên và cảnh lễ hội mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ, đồng thời thể hiện tâm trạng của hai chị em Kiều.
Bố cục:
Mở đầu (4 câu đầu): Giới thiệu cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp.
Thân bài (8 câu tiếp): Miêu tả cảnh lễ hội Thanh minh náo nhiệt, đông vui.
Kết thúc (6 câu cuối): Tả cảnh chị em Kiều trở về sau khi du xuân
Câu hỏi 2 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Qua bốn dòng thơ đầu, em hình dung quang cảnh được Nguyễn Du miêu tả như thế nào?
Trả lời:
Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân
- Hai câu thơ đầu vừa nói đến thời gian, vừa gợi được không gian:
+ Thời gian của mùa xuân thấm thoắt trôi mau, đã bước sang tháng ba “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
+ Không gian: ánh sáng trong veo, không gian trong trẻo cho những “con én đưa thoi”
⇒ Vừa tả cảnh vừa ngụ ý thời gian trôi qua mau
- Hai câu sau miêu tả bức tranh xuân tuyệt mĩ
+ “Cỏ non xanh tận chân trời”: không gian khoáng đạt, giàu sức sống
+ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”: Gọi hoa mùa xuân với sắc trắng trong trẻo, thanh khiết, tinh khôi
⇒ Bức tranh mùa xuân sinh động, giàu sức sống
Câu hỏi 3 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Lễ hội trong tiết Thanh minh được miêu tả như thế nào trong tám dòng thơ tiếp theo?
Trả lời:
Hình ảnh: gần xa nô nức, yến anh, chị em, bộ hành, tài tử giai nhân, ngựa xe, áo quần, ngổn ngang, tro tiền giấy…
Câu hỏi 4 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Hãy so sánh bức tranh thiên nhiên ở bốn dòng thơ đầu và sáu dòng thơ cuối, phân tích để thấy được mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong đoạn trích.
Trả lời:
* Bốn dòng thơ đầu: Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
Ngay từ 2 câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi ra không gian và thời gian trôi qua của mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian:
– Đó là hình ảnh tả thực những chú chim én bay lượn trên bầu trời ngày xuân. Trên nền trời xanh thoáng đãng ấy, những cánh én từ phương Nam về chao liệng như thoi đưa, cùng nhau múa vũ điệu chào đón mùa xuân của thiên nhiên.
– Hình ảnh những cánh én gợi cho người đọc hình dung về một bức tranh thiên nhiên với bầu trời cao rộng và một không khí ấm áp của sự đoàn viên, sum vầy
– Cánh én bay nhanh và nhiều như thoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian có những bước đi nhanh, vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi
Sự nhanh chóng của thời gian tiếp tục được thể hiện qua những vần thơ:
“Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
– Sử dụng từ “thiều quang” có tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được những tia nắng lấp lánh chiếu rọi
– Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành và tràn đầy sức sống tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát xuống vạn vật.
– Nhắc đến thời điểm mùa xuân vào tháng ba, khoảng thời gian mà vẻ đẹp sắc xuân đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
=> Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian mà còn thể hiện phần nào tâm trạng, cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân sinh động, mở rộng ra cả không gian trời và đất với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc và gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét đặc sắc cho bức tranh xuân:
– Hình ảnh giúp gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, làm nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời, tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất
– Cỏ non và màu xanh của cỏ non có tác dụng trong việc gợi liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, bắt đầu một hành trình sống mới
– Sử dụng từ “tận”, Nguyễn Du đã biến không gian xuân trong những câu thơ được mở rộng ra bao la, bát ngát
Sử dụng hình ảnh thơ “cành lê trắng điểm”, tác giả đã thể hiện khả năng tài tình của mình trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá:
– Trên nền màu xanh non của cỏ cây, xanh trong của trời đất là những bông hoa lê trắng, tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân. Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn.
– Tác giả sử dụng từ “điểm” thay vì các động từ khác. Điều này giúp gợi sự thanh thoát của những cành lê. Những cành lê tựa như đôi tay của người họa sĩ, chủ động tạo nét chấm phá, điểm thêm nét vào bức tranh cảnh vật nhằm thêm phần sống động, có hồn hơn
– Sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “trắng” lên trước động từ “điểm”, tác giả muốn nhấn mạnh và màu sắc của cành hoa lê, làm nổi bật màu trắng tinh khôi của hoa lê, màu của sự kết tinh từ tinh hoa của trời đất.
– Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
=> Bằng bút pháp chấm phá tài tình, qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp mùa xuân hiện lên không hề mang tính ước lệ mà mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ. Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên hoàn hảo, đầy sức sống đang ở ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
* Sáu dòng thơ cuối: Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau chuyến du xuân
Nô nức và náo nhiệt là thể nhưng không ai có thể ngừng được bước đi của thời gian, cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết. Trên một nền không gian chiều xuân yên bình, thanh khiết, hai chị em Kiều dắt tay nhau trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
– Đối lập với sự nhộn nhịp trong lễ hội mùa xuân, trên đường trở về của hai chị em, mọi chuyển động đều diễn ra nhẹ nhàng.
– Trái với bước đi vội vàng cùng sự trôi chảy nhanh của thời gian ở phần mở đầu đoạn trích, lúc này sự chuyển động của thời gian đã trở nên chậm rãi và nhẹ nhàng. Điều này được cảm nhận rõ nhất qua câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây”. Sau khi ban phát “thiều quang” cho ngày xuân ấm áp, mặt trời đã từ từ khuất bóng sau những đám mây, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống.
Nét đặc sắc trong hình ảnh thơ “tà tà bóng ngả về tây”:
– Sử dụng từ láy “tà tà” đã thành công trong việc gợi tả rõ nét hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn trong nền trời xế chiều. Cho thấy cảnh những ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, không gian từ sáng chuyển dần sang tờ mờ tối.
– Hình ảnh thơ có tác dụng gợi lên khung cảnh chiều tà tĩnh lặng và có chút buồn
– Sự tĩnh lặng và thanh tĩnh của cảnh vật cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình, cụ thể là hai chị em Kiều. Dường như hai chị em đang tiếc nuối về những phút giây nhộn nhịp, nô nức của buổi du xuân vừa diễn ra.
– Đến những câu thơ cuối bức tranh thiên nhiên, thay vì hiện lên với vẻ cao rộng và khoáng đạt tràn, cảnh sắc đã được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn như hình ảnh “tiểu khê” và chiếc “cầu nho nhỏ” để bộc lộ dòng tâm trạng của con người.
Tác dụng từ láy trong cảnh ngày xuân: Sử dụng hệ thống từ láy được trải đều trong các câu thơ cuối như “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao” đã giúp tác giả biểu đạt sắc nét cảm xúc trong từng câu thơ:
– Từ láy “thơ thẩn” có tác dụng trong việc gợi lên tâm trạng tiếc nuối, lưu luyến, pha chút bâng khuâng buồn của hai chị em Kiều qua những bước chân có chút tâm tình
– Từ láy “nao nao” giúp gợi lên nét buồn rất khác thường của con người và cảnh vật. Hình ảnh dòng chảy “nao nao”, lững lờ trôi chậm bên chân cầu “nho nhỏ” có sự thống nhất cảm xúc hoàn toàn với bước chân “thơ thẩn” của nhân vật trữ tình. Mặt khác, từ láy “nao nao” cũng mang tính tính chất dự báo, linh cảm không vui cho cuộc gặp gỡ sắp tới của Thúy Kiều.
– Sáu câu thơ cuối thể hiện mối quan hệ hai chiều qua lại giữa cảnh và tình. Khi hội tan, con người rơi vào trạng thái bâng khuâng, xao xuyến và nhìn cảnh vật bằng trong màu sắc u buồn và ảm đạm.
=> Trong 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã vận dụng khéo léo, xen kẽ bút pháp nghệ thuật độc đáo trong thơ ca trung đại. Nổi bật nhất là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, giúp tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình. Với phép nghệ thuật này, ta thấy cảnh vật vừa như có linh hồn của con người, vừa phảng phất nét u buồn và một vẻ đẹp rất đỗi tao nhã và thanh khiết.
Câu hỏi 5 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Khái quát những thành công về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (việc sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật chủ yếu; thể thơ lục bát, …).
Trả lời:
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ một cách tài tình để miêu tả thiên nhiên và lễ hội ngày xuân. Ngôn ngữ của ông giàu sức gợi hình, gợi cảm, giúp cho người đọc hình dung ra một cách sống động khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ. Bên cạnh đó, Nguyễn Du cũng rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh. Những hình ảnh trong thơ ông đều rất quen thuộc với đời sống con người, nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Du, chúng trở nên sinh động, mang đậm dấu ấn cá nhân. Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ... để tăng sức gợi tả, gợi cảm cho câu thơ. Bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng một cách thành công, giúp cho cảnh vật thiên nhiên như hòa quyện với tâm trạng con người. Thể thơ lục bát được sử dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển, giúp cho câu thơ du dương, mượt mà, dễ đi vào lòng người. Với những thành công về nghệ thuật như vậy, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân và lễ hội Thanh minh vô cùng sinh động, rực rỡ và đầy sức sống. Bức tranh ấy không chỉ đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn đẹp bởi tâm hồn con người. Qua đó, tác giả cũng thể hiện tài năng miêu tả thiên nhiên và nội tâm con người của mình.
Câu hỏi 6 (trang 38) SGK Ngữ văn 9 Cánh Diều - Soạn bài Cảnh ngày xuân: Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao? …).
Trả lời:
Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Bức tranh thiên nhiên được tạo nên từ màu xanh non tươi mát của thảm cỏ bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Sắc xanh của cỏ tháng ba là màu xanh non, mềm mại và êm dịu. Hình ảnh này khiến cho chúng ta như thấy cả một biển cỏ mở ra rộng lớn, vô cùng đẹp mắt. Những bông hoa lê trắng tinh khôi điểm xuyết trên nền xanh tươi. Tác giả chọn từ “vài bông” để ám chỉ rằng những bông hoa lê này đang nở dần, chưa đầy đủ. Bức tranh này giống như sự e ấp của thiếu nữ trong ngày xuân. Bằng cách này, tác giả sử dụng kỹ thuật hội hoạ phương Đông, thể hiện qua bút pháp chấm phá. Hai câu thơ miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của Nguyễn Du có thể đánh bại trái tim của người đọc, hòa mình vào cảnh đẹp tĩnh lặng. Hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ liên kết với bức tranh xanh ngọc của bầu trời, cành lê đặc điểm bởi vài bông hoa trắng. Thảm cỏ non mênh mông nhấn mạnh mùa xuân tới tận chân trời. Những bông hoa lê trắng điểm nhẹ trên nền xanh của cỏ tạo nên một bức tranh tươi mới, tinh tế, và tràn đầy sức sống. Sự hòa quyện giữa sắc trắng của hoa lê và màu xanh non là điểm độc đáo trong tác phẩm của Nguyễn Du. Đây không chỉ là mùa xuân mới mẻ, tươi tắn, tràn đầy năng lượng, mà còn là sự thanh khiết, nhẹ nhàng, và trong trẻo.