Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy - Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo

Đọc văn bản

BẾN NHÀ RỒNG NĂM ẤY…

Sơn Tùng

Cảng Nhà Rồng mờ mờ ánh đèn. Đêm hè trải dài theo gió. Gió va vào những boong tàu, dây buồm, phát ra những âm thanh hiu hắt hòa trong tiếng sóng vỗ bờ. Mấy con thuyền câu, bè vó như những chấm đen trôi lững đững trên sông loang loáng ánh đêm. Từ bên Thủ Thiêm, những ngôi sao lạc kẻ từng đường sáng giữa mênh mông.

Anh Ba ngồi kề vai với anh Tư Lê bên bờ sông. Họ im lặng nhìn xuống dòng sông. Anh Ba vẻ thận trọng hỏi Tư Lê:

- Anh Tư nầy. – Tư Lê xoay người nhìn vào mặt anh Ba – anh có dám nghĩ đến việc đuổi Tây ra khỏi nước mình không?

- Tôi là người thợ. Nhà tôi có thù với chúng mà, anh Ba!

Hai người im lại im lặng. Trước mặt họ một chân trời đen kịt. Anh Ba dè dặt hỏi:

– Anh có giữ kín được không?

– Kín chớ. Ơn sâu nghĩa nặng từ kinh đô Huế. Rượu thề kết nghĩa trên sông Phan Thiết, quên làm sao được, anh Ba.

Bóng tối như loãng ra quanh hai người. Anh Ba thì thầm:

– Nỗi khổ của người dân mất nước, chúng mình đã từng tâm sự nhiều lần. Bây giờ... bây giờ mình đã quyết định đi ra nước ngoài... Mình muốn anh cùng đi.

Tư Lê hơi bối rối. Anh cầm bàn tay anh Ba:

– Đi tới đâu hả anh Ba?

- Sang Pháp và… đi tới các nước văn minh khác. Sau khi xem xét họ làm ăn thế nào, chúng mình trở về giúp đồng bào đuổi hết thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập, tự do....

Tư Lê băn khoăn:

– Đuổi Tây, giành độc lập tự do, sao chúng mình lại sang Tây?

– Tôi đọc báo, đọc sách của những người Pháp viết, họ bàn nhiều đến quyền tự do, bình đẳng, bác ái. Tôi nghĩ, quyền lợi tối cao của một dân tộc là độc lập, tự chủ. Quyền cơ bản nhất của con người ở trong xã hội là quyền tự do, bình đẳng giữa người với người. Tôi muốn sang Pháp để được nhìn tận mắt người dân Pháp họ sống thế nào, đằng sau những cái chữ tự do, bình đẳng, bác ái ẩn náu những gì.

Anh Tư Lê do dự:

– Lấy tiền đâu mà đi và sang tận bên Tây lạ nước lạ cái, sống bằng cách chỉ được, anh Ba?

– Đây – anh Ba giọng cương quyết, chìa hai tay ra giữa bóng đêm – tiền đây. Chúng ta sống bằng bàn tay, bằng cái đầu của chúng ta.

Anh Tư Lê thở dài:

– Tìm đường cứu nước, cứu dân, việc quá lớn. Đầu óc tôi mới được vài chữ anh vừa chia sớt cho. Đi sang bên đó, họ văn minh, tôi lĩnh hội hổng nổi, anh Ba ạ. Hai người lại im lặng. Tiếng sóng thầm thì và tiếng đờn cò của ông già Đờn vắt qua sông, lan dài trong đêm xa mịt: ... Kéo neo... kéo... neo... tàu chạy... Gạt... nước... nước mắt... tiễn... đưa... Thương người đi... người... đi muôn... trùng… sóng... vỗ

Ngày 2 tháng 6 năm 1911. Anh Ba mặc quần áo trắng, toát lên màu thanh khiết, tóc rẽ đường ngôi bên phải, chải mượt, chân đi dép xăng-đan (sandal). Anh đi khoan thai xuống tàu Đô đốc La-tu-sơ To-rê-vin (Latouche-Tréville). Được sự giới thiệu của ông chủ sự cảng Nhà Rồng, anh Ba gặp viên thuyền trưởng. Thuyền trưởng Lu-i Ê-du-a Mai-sen (Louis Édouard Maisen) trạc tuổi gần bốn mươi, tiếp anh Ba dưới buồng khách của con tàu. Ông ta quan sát diện mạo anh Ba với một thái độ trọng nể. Ngay từ phút đầu, ông Mai-sen đã để ý tới đôi mắt to, dài và sáng của anh Ba. Ông chìa hai bàn tay ra trước mặt, nói:

− Ô! Nhìn anh, tôi ưa lắm, tốt lắm. Tiếc là trên con tàu của tôi không còn có loại công việc hợp với anh – Mai-sen lật lật quyển sổ nhân sự để trước mặt. Ông lại nhìn anh Ba, hỏi: — Anh biết đọc chữ Pháp chứ?

– Thưa ông Mai-sen, tôi đọc được ạ.

−Ồ..! Tốt, tốt lắm. — Mai-sen chỉ vào trang sổ nhân sự và nói bằng tiếng Pháp: – Đây. Anh xem, vừa mới sáng nay, tôi đã nhận thêm bốn người An-nam. Danh sách bốn người đây. – Mai-sen đọc tên từng người: – Đặng Quang Giao, Lê Quang Chi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Văn Trị.

Anh Ba chau mày, những ngón tay gõ gõ trên mặt bàn. Hai mắt anh Ba như phủ một lớp sương chiều. Ông Mai-sen đọc được những băn khoăn trong đôi mắt anh Ba:

– Tôi biết những người như anh muốn làm cánh chim bay trên những miền đất lạ.

Tiếc là, trên con tàu của tôi chỉ còn cần một chân phụ bếp.

Hai mắt anh Ba bừng sáng:

– Thưa ông Mai-sen, tôi đề nghị ông nhận tôi vào chân phụ bếp ấy.

− Ồ.. ! — Mai-sen nhìn anh Ba, hơi ngờ vực. – Một thư sinh như anh chịu không nổi đâu. Công việc làm bếp ở con tàu này rất nặng nhọc. Hằng ngày phải lo những bữa ăn cho cả trăm người với nhiều khẩu phần khác nhau; riêng hành khách có vé hạng nhất đã bốn mươi người.

Anh Ba chìa hai bàn tay ra trước ông Mai-sen:

– Ông xem những vết chai sạn trên bàn tay của tôi.

Mai-sen cầm lấy bàn tay anh Ba ngắm, mỉm cười:

–Người phương Tây chúng tôi rất tin khoa xem tướng bàn tay. Tôi không sành bói toán, nhưng bàn tay anh ngón thon dài thế này thì viết chữ đẹp, có năng khiếu mĩ thuật và âm nhạc. Anh được cả hai cái lớn: con mắt và bàn tay. Tôi biết một câu rất hay mà người An-nam hay dùng: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”.

– Ông đã xem tướng tôi, ông có tin là tôi làm được phụ bếp không?

– Tôi muốn nhận anh vào một công việc hợp với khả năng của anh, ít ra cũng là một chân thư kí trên con tàu của tôi. Để anh giữ chân phụ bếp, phí quá – ông ta hạ giọng: – Thôi được, từ ngày mai – ông ta nhìn lên tấm lịch – ngày mai là mồng 3 tháng 6, anh xuống tàu nhận việc. Tôi sẽ báo cho ông quản bếp để tiếp nhận anh đúng 8 giờ sáng mai. Tháng đầu tiên này tôi tạm cấp lương cho anh là 45 phờ-răng (Franc). Được chứ?

Anh Ba cười:

– Tôi sẽ làm việc xứng đáng với sự tin dùng của ông.

Ông Mai-sen còn đưa cho anh Ba một tấm thiếp in hình con tàu rẽ sóng đại dương, có chữ kí của ông, và một cuốn sách mỏng, cỡ bỏ túi, ngoài bìa cũng có hình con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin. Ông dặn cẩn thận:

– Anh giữ cái các' để tiện việc lúc lên bến, lúc xuống tàu. Cuốn sách nhỏ này giúp anh hiểu về hãng Sác-giơ Rê-uy-ni (Chargeurs Réunis) và con tàu của chúng tôi hoạt động như thế nào... Con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, trên đường về xóm, anh Ba vừa đi vừa xem tập sách nhỏ của ông Mai-sen đưa. Anh đọc nhẩm: Tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin thuộc hãng tàu Sác-giơ Rê-uy-ni. Con tàu này thuộc loại lớn nhất của hãng và cũng là tàu có cỡ của đầu thế kỉ XX. Chiều dài của con tàu: 120 mét 10, rộng 15 mét 20, trọng tải là 5 572 tấn, chạy bằng máy hơi nước với 2800 sức ngựa. Tàu có thể chạy một mạch những 12 000 hải lí, không cần phải ghé bến. Trong lòng con tàu được thiết kế hiện đại, tiện nghi. Đáy tàu là một bể chứa nước ngọt, tới 900 tấn. Có hầm chứa than: 150 tấn. Tầng trên của con tàu là các buồng làm việc, nghỉ ngơi, phòng giải trí vui chơi của các sĩ quan và thuỷ thủ. Tiếp đến là dãy phòng đủ cho bốn chục khách đi vé hạng nhất. Ở giữa khoang tàu, phần dưới cùng là ba nồi hơi lớn, các cỗ máy lớn và bếp nấu, nơi nghỉ của các người làm bếp, bồi bàn,... Xem đến trang giới thiệu về khu vực nhà bếp, anh Ba mỉm cười: mình sẽ được làm bạn với Táo quân.

Hướng dẫn đọc

Câu hỏi 1 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 91): Văn bản trên kể về sự việc gì trong cuộc đời của nhân vật “anh Ba”? Đối chiếu văn bản truyện với tiểu sử, niên biểu của lãnh tụ Hồ Chí Minh, chỉ ra một số chi tiết tương đồng, khác biệt

Trả lời:

– Văn bản trên kể về sự việc rời bến cảng nhà Rồng sang phương Tây tìm đường cứu nước của nhân vật “anh Ba”. Cụ thể là sang Pháp.

– Đối chiếu văn bản truyện với tiểu sử, niên biểu của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ta có một số chi tiết tương đồng, khác biệt như sau:

+ Tương đồng: Đều rời khỏi bến cảng nhà Rồng sang phương Tây tìm đường cứu nước.

+ Khác nhau:

- Truyện đề cao tính nghệ thuật, chú trọng chi tiết vào việc miêu tả tâm trạng, suy nghĩ… của anh Ba.

- Trong tiêu sử, niên biểu đề cao tính lịch sử, chú trọng vào sự kiện lịch sử.

Câu hỏi 2 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 91): Liệt kê một số cụm từ trong văn bản thể hiện mục đích chuyến đi của nhân vật “anh Ba”.

Trả lời:

* Một số cụm từ trong văn bản thể hiện mục đích chuyến đi của nhân vật “anh Ba”:

- Đuổi Tây ra khỏi nước mình; nỗi khổ của người dân mất nước...

- Giúp đồng bào đuổi hết thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập, tự do...

- Sang Pháp để được nhìn tận mắt người dân Pháp họ sống thế nào, đằng sau những cái chữ “tự do, bình đẳng, bác ái” ẩn náu những gì...

Câu hỏi 3 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 92): Theo em, nét tính cách nổi bật nhất của nhân vật “anh Ba” được thể hiện trong văn bản là gì? Phân tích một số chi tiết tiêu biểu để làm rõ ý kiến của em.

Trả lời:

– Theo em, nét tính cách nổi bật nhất của nhân vật “anh Ba” được thể hiện trong văn bản trước tiên là người yêu nước, căm thù giặc sâu sắc sau đó là người quyết đoán, dũng cảm, yêu nước thương dân, sẵn sàng hi sinh vì đất nước.

– Một số chi tiết tiêu biểu để làm rõ ý kiến của minh là:

+ Chúng mình trở về giúp đồng bào đuổi hết thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập, tự do.

+ Tìm đường cứu nước, cứu dân.

+ Tôi muốn sang Pháp để được nhìn tận mắt người dân Pháp họ sống thế nào đằng sau những cái chữ tự do, bình đẳng, bắc ái ẩn náu những gì,…..

Câu hỏi 4 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 92): Trong văn bản, nhân vật “anh Ba” đã trò chuyện, tiếp xúc với những ai? Các cuộc trò chuyện, tiếp xúc ấy có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tính cách của nhân vật “anh Ba”?

Trả lời:

– Trong văn bản, nhân vật “anh Ba” đã trò chuyện, tiếp xúc với anh Tư Lê và thuyền trưởng Lu-i Ê-đu-a Mai-sen.

– Các cuộc trò truyện, tiếp xúc ấy thể hiện anh Ba là người không ngại khó khăn gian khổ, dám nghĩ dám làm, kín đáo, khiêm nhường nhưng lịch thiệp, tự tin. Xem mục tiêu lâu dài là quan trọng nên sẵn sàng đảm nhận công việc thấp hơn khả năng của mình. Đồng thời cũng thấy được sự gần gũi, thân tình, thể hiện lựa chọn dứt khoát của bản thân, nhưng cũng sẵn lòng cảm thông với hoàn cảnh riêng của bạn. 

Câu hỏi 5 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 92): Việc sử dụng các danh từ riêng như Cảng Nhà Rồng, Lu-i Ê-đu-a Mai-sen...; các số liệu về kích cỡ, trọng tải, cấu trúc nội thất tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin... có tác dụng gì đối với câu chuyện, sự việc được kể?

Trả lời:

– Việc sử dụng các danh từ riêng như Cảng Nhà Rồng, Lu-i Ê-đu-a Mai-sen,…, các số liệu về kích cỡ, trọng tải, cấu trúc nội thất tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin;… có tác dụng làm cho câu chuyện có tính chân thực, khác quan, đúng với thực tế chứ không phải là tác giả tưởng tượng, hư cấu, làm tăng tính xác thực, mang tới cho người đọc thông tin chính xác đối với câu chuyện, sự việc được kể.

Câu hỏi 6 SGK Ngữ văn 8 CTST – Soạn bài Bến Nhà Rồng năm ấy (trang 92): Viết đoạn văn chia sẻ cảm nhận hoặc làm một bài thơ, vẽ một bức chân dung một trong ba nhân vật: Quang Trung (Quang Trung đại phá quân Thanh), Hoài Văn (Viên tướng trẻ và con ngựa trắng), anh Ba (Bến Nhà Rồng năm ấy...).

Trả lời:

Nhân vật Quang Trung

     Người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn từ lâu đã luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Với thiên tài quân sự của mình, ông đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Không ai khác đó chính là  Quang Trung – Nguyễn Huệ. Trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái. Hồi thứ mười bốn đã phản ánh chân thực và đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà còn là một tướng quân oai phong lẫm liệt, giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được nhân dân kính phục, yêu mến.

Nhân vật Anh Ba

     Trong tác phẩm Bến Nhà Rồng năm ấy, Nhân vật anh Ba chính là Bác Hồ vĩ đại của chúng ta đã dùng cái tên giả này để hoạt động và tìm đường ra đi cứu nước. Trong tâm trí của anh Ba, chỉ tồn tại việc phải làm thế nào để nước ta có thể độc lập, dân ta không phải cực khổ, chứ hoàn toàn không nghĩ gì về sự vất vả, khó khăn của chính mình. Qua cuộc hội thoại với anh Tư Lê, ta càng cảm nhận được quyết tâm đi sang nước bạn để tìm cách giải cứu nước ta của Bác.  Khi được hỏi về việc phải làm sao để có tiền sinh sống, anh Ba đã rất tự tin để đưa ra hai bàn tay của mình. Đó là sự ý thức về sự lao động và quyết tâm làm bất cứ công việc gì để có thể tìm được con đường cứu nước. Giác ngộ ấy đã góp phần thể hiện sự vĩ đại, tiến bộ trong tư tưởng và sự hi sinh cao cả của anh. Trên con đường cứu nước đó, anh ắt sẽ phải làm việc vất vả. Nhưng lúc ấy, trong anh chỉ toàn là niềm vui sướng và hi vọng về tương lai phía trước. Chắc chắn, anh sẽ vượt qua tất cả để tìm được con đường cứu nước, và trở về quê hương với trái tim chân chất thuở ban đầu.

Nhân vật Hoài Văn

     Lấy bối cảnh từ chính cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, Nguyễn Huy Tưởng không dựa vào yếu tố lịch sử mà chủ yếu là từ trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo. Nhà văn đã vẽ nên một bức tranh thật bao quát về cuộc kháng chiến do đích thân Trần Hưng Đạo điều binh khiển lực. Hoài Văn sau khi bị từ chối tham gia chủ chiến đã tự rèn luyện và huy động đội quân riêng. Họ không đi đánh giặc theo lệnh vua ban mà tự mình đi tìm giặc, thấy ở đâu là đánh ở đó, ý chí quyết tâm ấy đã được thể hiện rất rõ ràng qua lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân”. Đội quân này không tuân theo lệnh vua mà tự mình tìm đối phương, thể hiện quyết tâm qua lá cờ đỏ thêu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân”. Họ đối mặt với giặc ở núi Ma Lục, áp dụng chiến thuật phục kích và xông lên khi có cơ hội. Tuy đây là trận đánh đầu tiên của Hoài Văn và đội quân, nhưng họ đã dành được chiến thắng oanh liệt. Chiến công của họ không chỉ thể hiện sự tài trí của Hoài Văn mà còn là sự đoàn kết và dũng mãnh của toàn đội. Sau chiến thắng đầu tiên, Hoài Văn giải quyết hiểu nhầm với Thế Lộc và cứu thoát Chính Thành Vương khỏi tay Trần Ích Tắc. Anh là người trọng tình nghĩa, dám hy sinh để bảo vệ đồng bào và đất nước. Trong trận đấu, người chú của Hoài Văn cũng không ngờ anh sẵn sàng đánh đổi sinh mạng để cứu ông khỏi hiểm nguy. Qua chi tiết này cho thấy anh là một người trọng tình nghĩa và dám hết mình chiến đấu để đánh tan quân giặc bảo vệ đất nước. Hoài Văn cũng là người rất khôn khéo, chính trực khi vừa lập chiến công vừa lấy đó làm lí do hóa giải được hiểu nhầm với người anh em kết nghĩa Thế Lộc. Đây quả là một bậc anh hùng tài giỏi, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, trọng nghĩa khí và hết lòng cho nhân dân, đất nước.  Hoài Văn – Anh hùng dân tộc, niềm tự hào của nhân dân, mang lại hào khí và ảnh hưởng lớn đối với thế hệ trẻ ngày nay. Đồng thời, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng là một sự kết hợp giữa sự sáng tạo nghệ thuật và tinh thần lòng yêu nước, tạo nên một bức tranh rộng lớn về tinh thần chiến đấu và đoàn kết trong lịch sử Việt Nam.