Đọc hiểu
Câu 1 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 57): Chú ý cách tác giả giới thiệu về tháng Giêng và mùa xuân.Trả lời:
– Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết.
+ Cách giới thiệu: Trực tiếp
=> Giới thiệu trực tiếp vào mùa xuân, về tháng Giêng. Bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc mà không hề e ngại.
Câu 2 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 58): Cảnh sắc và con người Hà Nội vào mùa xuân có đặc điểm gì?
Trả lời:
- Mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng.
Câu 3 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 58): Cảm xúc của nhân vật “tôi” trước mùa xuân thế nào?
Trả lời:
- Cảm xúc:
+ ...làm cho người ta phát điên lên như thế đấy.
+ ...nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên...
+ ...tim người ta dường như cũng trẻ hơn ta...
+ ...ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
→ Cảm xúc của nhân vật “tôi” trước mùa xuân rất vui vẻ, bồi hồi, yêu đời.
Câu 4 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 59): Ở phần 3, tác giả đã bày tỏ cảm xúc gì về mùa xuân Hà Nội?
Trả lời:
- Ở phần 3 tác giả đắm say, say mê trước mùa xuân ở Hà Nội đặc biệt sau ngày rằm tháng Giêng.
- Các chi tiết như: “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”. Cho thấy, tác giả cảm thán, vui vẻ trước vẻ đẹp của mùa xuân.
Câu 5 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 60): Thời tiết đặc trưng của Hà Nội sau rằm tháng Giêng như thế nào?
Trả lời:
- Thời tiết đặc trưng của Hà Nội sau rằm tháng Giêng:
+ Rét vẫn còn
+ Chưa có mưa rây
Câu 6 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 60): Trong tâm trí tác giả, trăng tháng Giêng có gì đặc biệt?
Trả lời:
- Trăng tháng Giêng:
+ ...non như người con gái mơn mởn đào tơ.
+ ...hình như cũng đẹp hơn các tháng khác trong năm thì phải, sáng nhưng không sáng lộng lẫy như trăng mùa thu, đẹp nhưng không đẹp một cách húa éo như trăng tháng Một.
+ Cái đẹp của trăng tháng Giêng là cái đẹp của nàng trinh nữ thẹn thùng, vén màn hoa ở lầu cao để nhìn xem ai là tri kỷ.
+ Ánh trăng lúc ấy không vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền.
→ Trăng tháng Giêng có nét đẹp rất đặc biệt không giống như bất kỳ trăng ở các tháng khác. Một nét đẹp thẹn thùng, mơn mởn sắc xuân.
Câu hỏi
Câu hỏi 1 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Đề tài của văn bản Thương nhớ mùa xuân là gì? Dựa vào đâu để em biết được điều đó?Trả lời:
Đề tài của văn bản Thương nhớ mùa xuân là tình yêu thương với quê hương và gia đình. Những điều này đã được biểu lộ một cách chân thực và cụ thể, khiến cho nỗi nhớ nhung về quê nhà, gia đình trong tâm hồn tác giả trở nên rất rõ ràng qua văn bản. Bằng cách diễn đạt linh hoạt và chân thực, tác giả đã truyền đạt một cách sống động những cảm xúc thiêng liêng của mình. Trong việc tái hiện ký ức về mùa xuân tại đất Bắc Hà Nội. Vũ Bằng đã mô tả chi tiết cảnh đẹp tự nhiên và cuộc sống sôi động của những người dân thủ đô một cách rõ ràng. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, trầm bổng và du dương, tác giả đã tạo nên một không gian tưởng tượng đầy mê hoặc. Cảm xúc đượm buồn, hồn nhiên của ông đã chạm đến độc giả, đưa họ bước chân vào thế giới hồi ức huyền bí. Như là một cuộc tâm sự chân thành, tác giả đã lặp đi lặp lại những ký ức như những lời thổ lộ, khiến người đọc ngập tràn trong không khí của một mùa xuân đặc biệt: “Mùa xuân của tôi… mùa xuân thần thái của tôi…”
Câu hỏi 2 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Xác định nội dung chính của mỗi phần trong văn bản Thương nhớ mùa xuân. Theo em, mạch lô gích chính gắn kết các phần của văn bản là gì?
Trả lời:
– Bố cục: Thương nhớ mùa xuân có bố cục 3 phần:
+ Phần 1 (từ đầu đến “mê luyến mùa xuân”): Cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân.
+ Phần 2 (tiếp đó đến “mở hội liên hoan”): Miêu tả cảnh sắc và không khí mùa xuân Hà Nội.
+ Phần 3 (còn lại): Cảnh sắc và không khí màu xuân sau ngày rằm tháng Giêng.
– Theo em, mạch lô gích chính gắn kết các phần của văn bản là: suy nghĩ, cảm nhận của nhà văn về cảnh sắc mùa xuân.
Câu hỏi 3 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Cái “tôi” tác giả trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc gì? Hãy dẫn ra một số câu văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy.
Trả lời:
- Cái “tôi” tác giả trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả đối với mùa xuân.
- Một số câu văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy là:
+ "Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân."
+ "Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác."
Câu hỏi 4 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Phân tích sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình của thể loại tuỳ bút qua một vài biểu hiện cụ thể của văn bản Thương nhớ mùa xuân (ngôn ngữ, chi tiết, sự việc,...).
Trả lời:
- Trong văn bản “Thương Nhớ Mùa Xuân,” tác giả Vũ Bằng đã kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình của thể loại tuỳ bút thông qua nhiều phương tiện biểu đạt như ngôn ngữ, chi tiết và sự việc.
+ Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản tuy chỉ đơn giản nhưng rất sắc sảo, giàu hình ảnh, đồng thời chứa đựng cảm xúc sâu sắc, tạo nên một trải nghiệm độc đáo cho người đọc.
+ Việc sử dụng nhiều phương thức kể, tả và biểu cảm giúp tạo ra một giọng điệu thơ nhịp nhàng và hài hòa.
+ Cảnh vật thiên nhiên mùa xuân dưới ngòi bút nhà văn rất sinh động và đẹp, qua đó đã thể hiện được tình cảm của tác giả với quê hương và cảnh sắc nơi đó. Một số chi tiết như “Anh có thể đạp cỏ trên Hồ Gươm…anh vậy”, “Thường thường, vào khoảng… cuộc sống êm đềm, thường nhật”,… đã thể hiện được sự sinh động đó.
– Hơn nữa, sự linh hoạt của tác giả không chỉ xuất hiện trong các câu kể, tả mà còn thông qua việc sử dụng nhiều câu cảm thán, nơi tâm tư và tình cảm của ông hiện rõ: “Ới ơi người em gái xõa tóc bên cửa sổ!”, “Tôi yêu sông xanh, núi tím…. là vì thế”,… Điều này làm cho tác giả trở thành một người kể chuyện tài năng, khiến độc giả cảm nhận sâu sắc hơn về những trải nghiệm và cảm xúc của ông.
Câu hỏi 5 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Chi tiết nào về thiên nhiên (hoặc phong tục, con người) Hà Nội trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao?
Trả lời:
- Chi tiết ấn tượng: Thiên nhiên tháng Giêng ở Hà Nội.
- Vì: Việt Nam có ba vùng miền và mỗi vùng miền lại có đặc điểm về khí hậu và thời tiết khác nhau trong đó, mùa xuân và khí hậu miền Bắc rất đặc biệt vì nó có đủ 4 màu trong một năm. Vũ Bằng đã miêu tả rất chân thực khung cảnh tháng giêng về với những cảm nhận về sự chuyển giao diệu kỳ của thời tiết và sự hòa quyện giữa cảnh sắc thiên nhiên với con người nơi đây.
Câu hỏi 6 SGK Văn 11 Cánh Diều - Soạn bài Thương nhớ mùa xuân (trang 61): Em hiểu thêm được những gì về giá trị văn hoá dân tộc thông qua văn bản Thương nhớ mùa xuân?
Trả lời:
Cảm nhận thứ nhất
Qua văn bản “Thương Nhớ Mùa Xuân”, đã cho em một nhận thức sâu sắc về giá trị văn hóa dân tộc, đặc biệt là qua văn hóa con người Hà Nội, được thể hiện qua các chi tiết mô tả về ngày Tết. Tết miền Bắc thường được gắn liền với hình ảnh tươi mới của hoa đào nở rộ, bánh chưng xanh ngon lành, được ăn kèm với thịt mỡ và dưa hành thơm bùi. Mỗi khi thấy hoa đào nở, hay mùa xuân đến, cảm giác Tết vẫn ngự trị trong tâm hồn. Những nét đặc trưng này tạo nên bức tranh Tết đậm chất văn hóa, là nguồn cảm hứng không ngừng cho tâm hồn dân tộc.
Cảm nhận thứ hai
Thông qua văn bản “Thương Nhớ Mùa Xuân,” đã giúp em hiểu sâu hơn về văn hóa đặc trưng của con người Hà Nội. Các chi tiết “Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác,” và “Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết… Tết là khoảnh khắc sum vầy, hạnh phúc, nhưng cũng là thời điểm cuối cùng của sự trang trí lễ hội. Khi hoa đào phai, cuộc sống trở lại với quỹ đạo bình thường, nhưng những kỷ niệm ấm áp và giá trị văn hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại trong lòng người, tạo nên một sự đan xen hài hòa giữa hiện tại và quá khứ, giữa truyền thống và đương đại. Đồng thời tô điểm những đặc điểm nổi bật của văn hóa miền Bắc trước và sau những ngày Tết.